Quyền về hưu trí
Người lao động phải đảm bảo đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi 03 tháng, nữ đủ 55 tuổi 04 tháng. Tuổi nghỉ hưu sẽ tăng lần lượt là 03 tháng và 04 tháng đối với nam và nữ sau mỗi năm để đạt 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035.Từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là 60 tuổi 03 tháng đối với nam và 55 tuổi 04 tháng đối với nữ. Cứ sau mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với nam và 04 tháng đối với nữ.
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn đến 05 năm so với quy định nêu trên. Tương tự, tuổi nghỉ hưu của người lao động có tay nghề cao và người lao động trong một số trường hợp đặc biệt có thể tăng lên tối đa 05 năm so với tuổi nghỉ hưu thông thường.
Luật Bảo hiểm xã hội có quy định đối với lương hưu và trợ cấp hưu trí. Để được hưởng chế độ hưu trí, người lao động phải đủ 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ và có đủ ít nhất 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Nam 55 tuổi và nữ 50 tuổi có thể nghỉ hưu sớm nếu có đủ 15 năm làm việc trong điều kiện lao động độc hại, khó khăn hoặc trong các khu vực địa lý nhất định. Mức lương hưu hàng tháng tính bằng 45% mức thu nhập bình quân cho 15 năm đầu tiên đóng bảo hiểm. Sau đó cứ mỗi năm tham gia đóng bảo hiểm tăng thêm thì cộng 2% hoặc 3% (tương ứng với nam và nữ). Mức lương hưu tối đa là 75% thu nhập bình quân người lao động tham gia bảo hiểm. Những người không đủ điều kiện cho hưởng chế độ hưu trí (có ít năm đóng bảo hiểm hơn) được trả trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Người lao động tham gia bảo hiểm, những người đã đóng bảo hiểm nhiều hơn số năm tương ứng với tỷ lệ lương hưu 75%, được quyền hưởng trợ cấp gộp một lần khi về hưu.
Thêm vào đó, từ nay người lao động đạt đến tuổi nghỉ hưu là một lý do hợp lệ cho việc chấm dứt hợp đồng lao động đơn phương.
Các quy định của Bộ luật Lao động mới (2019) và Nghị định thi hành (2020) được áp dụng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
Nguồn: Điều 35 và Điều 168-169 của Bộ luật Lao động, 2019; Điều 53-65 của Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13).
Tử tuất trả cho người phụ thuộc / người còn sống
Luật Bảo hiểm xã hội quy định những thân nhân của người đã mất thuộc một trong các trường hợp sau đây được hưởng tiền tuất hàng tháng bao gồm: người chết có ít nhất 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, đang hưởng lương hưu hoặc đang hưởng trợ cấp do suy giảm khả năng lao động ít nhất 81%. Thân nhân của người hưởng tiền tuất bao gồm: vợ từ đủ 55 tuổi trở lên, chồng từ đủ 60 tuổi trở lên (hoặc vợ dưới 55 tuổi hoặc chồng dưới 60 nhưng bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên); con chưa đủ 15 tuổi; con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học; con từ đủ 15 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng (hoặc những người khác mà phụ thuộc vào thu nhập của người chết) nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; cha mẹ, vợ, chồng nếu không có thu nhập hoặc có thu nhập ít hơn so với mức lương tối thiểu. Mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân đủ điều kiện từ 50% đến 70% mức lương tối thiểu hàng tháng (số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá bốn người). Ngoài ra, thân nhân còn có thể hưởng trợ cấp mai táng hoặc tiền tuất một lần.
Nguồn: Điều 66-71 Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014//QH13).
Trợ cấp mất sức lao động
Luật Bảo hiểm xã hội quy định trợ cấp cho người tàn tật trong trường hợp xảy ra tai nạn/thương tích/bệnh tật không thuộc về nghề nghiệp dẫn đến tàn tật vĩnh viễn. Điều kiện để hưởng trợ cấp này là người lao động suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có ít nhất 15-20 năm đóng bảo hiểm. Trợ cho người cấp tàn tật được tính tương tự trợ cấp người cao tuổi.